Chuyên đề - Khai thác 5 bước dạy của phương pháp bàn tay nặn bột trong giảng dạy môn Khoa học cấp Tiểu học
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề - Khai thác 5 bước dạy của phương pháp bàn tay nặn bột trong giảng dạy môn Khoa học cấp Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề - Khai thác 5 bước dạy của phương pháp bàn tay nặn bột trong giảng dạy môn Khoa học cấp Tiểu học
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẬN GÒ VẤP TRƯỜNG TH LÊ ĐỨC THỌ CHUYÊN ĐỀ “KHAI THÁC 5 BƯỚC DẠY CỦA PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT TRONG GIẢNG DẠY MÔN KHOA HỌC CẤP TIỂU HỌC” Tháng 7/2018 Phương pháp “Bàn tay nặn bột” là một phương pháp có tiến trình dạy học rõ ràng, dễ hiểu, có thể áp dụng được ở điều kiện của Việt Nam. Đội ngũ cán bộ quản lí và GV luôn nhiệt tình, ham học hỏi là điều kiện tốt thúc đẩy việc áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào quá trình dạy học các môn khoa học. Việc tổ chức các hoạt động theo tiến trình sư phạm của phương pháp “Bàn tay nặn bột” đã được thực hiện ở nhiều bài học. Nhiều GV đã tự nghiên cứu, tìm hiểu về phương pháp này nên việc lĩnh hội những điều cơ bản của “Bàn tay nặn bột” không có gì khó khăn. Ban giám hiệu nhà trường quan tâm đến các hoạt động dạy và học, định hướng đúng đắn và kịp thời, hỗ trợ cho GV trong quá trình giảng dạy. Đội ngũ GV dạy lớp 4, 5 đa số trẻ, nhiệt tình, có ý thức đổi mới phương pháp dạy học, xác định được tầm quan trọng của việc dạy học trong nhà trường. Đặc điểm của HS tiểu học là tò mò tự nhiên, thích khám phá. Các em có thể tiếp cận thế giới xung quanh mình qua việc tham gia các hoạt động nghiên cứu tìm tòi, sáng tạo để rút ra các kiến thức cho riêng mình. Qua quá trình thử nghiệm áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào trong lớp học, HS hứng thú với những hoạt động tìm kiếm kiến thức mới. Điều kiện về cơ sở vật chất của nhà trường ngày càng tiến bộ với nhiều trang thiết bị hiện đại giúp GV và HS tiếp cận công nghệ thông tin, đổi mới có hiệu quả việc dạy và học theo hướng tích cực. Kết hợp việc soạn giáo án điện tử với sử dụng bảng tương tác, HS được tiếp cận với các hình ảnh của bài giảng để tìm hiểu các kiến thức khoa học một cách thực tế, sinh động. GV và HS còn có thể tự làm bài trực tiếp trên bảng: viết, vẽ với các hình ảnh, màu sắc khác nhau. Bảng tương tác có chức năng giống như màn hình cảm ứng, tạo ra môi trường học tập trực quan, sinh động, giúp GV, HS có thể tương tác trực tiếp vào giáo án điện tử. Hệ thống thiết bị kiểm tra trắc nghiệm giúp GV kiểm tra, đánh giá các đáp án của HS trong thời gian nhanh nhất. Mỗi bài giảng sử dụng bảng tương tác đã đem đến cho HS những kiến thức hết sức sinh động, trực quan, dễ hiểu, nhớ lâu, tạo ấn tượng mạnh, làm cho HS hào hứng khi tham gia học tập, ... Qua quá trình giảng dạy, việc áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” và bảng tương tác vào trong các lớp học, có thể nhận thấy sự ham thích của HS. Các em hứng thú với những hoạt động tìm hiểu kiến thức mới. Điều này chứng tỏ HS luôn ham thích được học tập, hăng say tìm tòi và sáng tạo. 2. Khó khăn * Về điều kiện, cơ sở vật chất: - Phần lớn các trường học chưa có phòng học bộ môn và phòng thí nghiệm để phục vụ cho việc giảng dạy các bộ môn khoa học. Dụng cụ thí nghiệm chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và thiếu chính xác. Các thí nghiệm đều do chính HS đề xuất và thực hiện. Vì thế, nếu đề xuất thí nghiệm của các em đúng nhưng đồ dùng chuẩn bị cho thí nghiệm hiện thời không có thì HS không thể kiểm chứng được ý tưởng ban đầu, có thể giảm sự thành công của tiết học cũng như khiến các em mất đi hứng thú, say mê tìm hiểu. - Nguồn tài liệu bổ trợ cho hoạt động tìm tòi, khám phá của HS cũng như tài liệu khoa học liên quan đến các bài dạy cho GV cũng còn hạn chế. * Về đội ngũ GV: - Kiến thức chuyên sâu về khoa học của một số GV còn hạn chế. Vì vậy, GV thường gặp nhiều khó khăn trong việc trả lời, giải đáp các câu hỏi cũng như khó khăn 3 - Bước 3: HS đặt câu hỏi và đề xuất phương án thí nghiệm - Bước 4: HS tiến hành thực nghiệm - Bước 5: HS so sánh kết quả sau thực nghiệm với dự đoán và rút ra kết luận. Trên cơ sở những bước học tập như trên, có thể thấy rằng GV sẽ không phải tốn nhiều thời gian cho việc thuyết trình giảng giải. Đồng thời, kiến thức cũng sẽ được HS tiếp nhận một cách tự nhiên, không gò ép. 2. Khai thác 5 bước dạy của phương pháp “Bàn tay nặn bột” 2.1. Bước 1: Đưa ra tình huống có vấn đề cần tìm hiểu GV đặt vấn đề, gợi ý cho HS nêu câu hỏi, hướng HS đến vấn đề cần nghiên cứu. Ở đây, GV cần ghi lại những ý kiến, những phán đoán ban đầu của HS để so sánh, đối chiếu với kết quả nghiên cứu sau đó. GV giới thiệu phương tiện học tập: Có thể ghi tên PTHT lên bảng phụ trước đó hoặc chiếu trên màn hình sao cho HS quan sát tốt và biết rõ mình có thể chọn lựa những gì cho hoạt động học tập. Nếu tổ chức ngoài thiên nhiên, GV giới thiệu trước địa điểm tiến hành, các quy định về an toàn kỉ luật, GV gợi ý một số cách thức tổ chức thực hiện để tìm hiểu vấn đề. Tùy vào đối tượng HS, những gợi ý này sẽ cụ thể đến mức nào. Tuy nhiên, GV lưu ý để không làm mất khả năng tư duy độc lập và niềm vui sáng tạo ở HS. Việc xác định kiến thức khoa học phù hợp với HS theo độ tuổi là một vấn đề quan trọng đối với GV. GV phải tự đặt ra các câu hỏi như: Có cần thiết giới thiệu kiến thức này không? Giới thiệu vào thời điểm nào? Cần yêu cầu HS hiểu ở mức độ nào? GV có thể tìm câu hỏi này thông qua việc nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa và tài liệu hỗ trợ GV để xác định rõ hàm lượng kiến thức tương đối với trình độ, độ tuổi của HS và điều kiện địa phương. Ví dụ: Bài 54 “Cây con có thể mọc lên từ một số bộ phận của cây mẹ” lớp 5: GV xác định mục tiêu của bài, HS phải xác định được vị trí chồi ở một số cây khác nhau và thực hành trồng cây bằng một số bộ phận của cây mẹ. Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do GV chủ động đưa ra như là một cách hấp dẫn nhập vào bài học. Tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với HS; nhằm lồng ghép câu hỏi nêu vấn đề. Ví dụ: - Khi dạy bài Không khí gồm những thành phần nào? GV nêu câu hỏi: Theo em: Không khí gồm những thành phần nào? - Khi dạy bài Sự lan truyền âm thanh: GV hỏi: Theo em âm thanh được lan truyền như thế nào? Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học; cần đảm bảo yêu cầu phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu của HS nhằm chuẩn bị tâm thế cho HS trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức. GV dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng (trả lời có hoặc không) đối với câu hỏi nêu vấn đề. 2.2. Bước 2: HS bộc lộ quan điểm ban đầu Làm bộc lộ quan niệm ban đầu hay biểu tượng ban đầu để từ đó hình thành các câu hỏi hay giả thuyết của HS là bước quan trọng đặc trưng của PPBTNB. Trong bước 5 - Đối với ý kiến hay vấn đề đặt ra đơn giản, ít phương án hay thí nghiệm chứng minh, có thể cho HS trả lời trực tiếp phương án mà HS đề xuất. - Đối với các kiến thức phức tạp, thí nghiệm cần thực hiện để kiểm chứng, HS khó đề xuất đầy đủ và chuẩn xác, GV có thể chuẩn bị một loạt các vật dụng liên quan đến việc làm thí nghiệm, giới thiệu đến HS. Sau đó yêu cầu các nhóm lên lấy các đồ dùng cần thiết để làm thí nghiệm chứng minh. GV cần chuẩn bị trước các nguyên vật liệu cho các thí nghiệm dự kiến để có kết quả như mong muốn, vận dụng tối đa những nguyên liệu sẵn có, dễ kiếm để thực hiện thí nghiệm. Đảm bảo độ an toàn, tính khả thi của các hoạt động quan sát, thí nghiệm trong nhiều hoàn cảnh dạy học khác nhau. - Khi sử dụng công nghệ thông tin cho bài dạy áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” cần đúng lúc, đúng chỗ, hợp lí. - Thầy cô theo dõi, xoáy sâu vào các điểm khác biệt gây tranh cãi đó để giúp HS tự đặt câu hỏi thắc mắc và thôi thúc HS đề xuất các phương án để tìm ra câu trả lời. Một số phương án tìm câu trả lời có thể không phải làm thí nghiệm mà tìm câu trả lời bằng cách nghiên cứu các tài liệu (SGK, tờ rơi thông tin khoa học do GV cung cấp), hoặc quan sát (trên vật thật, trên mô hình, tranh vẽ khoa học). 2.4. Bước 4: HS tiến hành thực nghiệm 2.4.1. Tổ chức lớp học Bố trí bàn ghế theo nhóm cố định, sắp xếp phù hợp với số HS, chia nhóm nhỏ 4-6 em/nhóm. Có chỗ dành riêng để các nguyên vật liệu chuẩn bị cho việc giảng dạy đảm bảo an toàn, thuận lợi học tập. Không khí làm việc trong lớp học: GV tạo sự thoải mái để tất cả HS ham thích các hoạt động: thực hiện thí nghiệm, suy nghĩ, thảo luận, trao đổi, trình bày bằng lời nói, viết hoặc vẽ... 2.4.2. Tổ chức hoạt động nhóm trong phương pháp “Bàn tay nặn bột” GV yêu cầu HS thành lập nhóm có số thành viên cần thiết. Lưu ý: Thành viên nhóm nên thay đổi với mỗi nội dung học tập khác nhau để mọi HS đều có cơ hội thể hiện bản thân. HS chia nhóm, đặt tên nhóm, cử nhóm trưởng, thư kí: GV gợi ý để HS đặt tên nhóm liên quan đến nội dung học tập. Ví dụ: khi HS tìm hiểu về thực vật, tên nhóm của các em có thể là tên của một số loài cây, loài hoa, trái cây như: Nhóm Hoa Mai, nhóm Hướng Dương; khi HS tìm hiểu về động vật như: nhóm chim cánh cụt, nhóm gấu trúc, HS thảo luận để thống nhất các hoạt động thí nghiệm, thực nghiệm, lựa chọn phương tiện, cử thành viên lựa chọn PTDH, Các nhóm tiến hành công việc kết hợp ghi chép cá nhân vào vở thực nghiệm, Đối với các lớp nhỏ (lớp Một, Hai), HS chủ yếu là ghi nhớ và trả lời miệng. - Mỗi nhóm không quá nhiều HS. GV không can thiệp sâu vào vấn đề tổ chức nhóm của HS. - Chú ý vấn đề an toàn trong quá trình các em làm thí nghiệm. - Trong quá trình HS thảo luận theo nhóm, GV di chuyển đến các nhóm, phát hiện những nhóm thực hiện lệnh thảo luận sai để điều chỉnh hoặc chọn ý kiến kém chính xác nhất của một nhóm nào đó để yêu cầu trình bày đầu tiên trong phần thảo luận, cũng như nhận biết nhanh ý kiến của nhóm nào đó chính xác nhất để yêu cầu trình bày sau cùng. 7 - Mô tả kế hoạch làm việc của nhóm: HS phải báo cáo về quy trình thực hiện công việc của nhóm, mô tả công việc của từng thành viên và của cả nhóm. Thông qua việc mô tả này, GV có thể nắm bắt được cách tổ chức thực hiện công việc, mức độ tham gia công việc của các thành viên trong nhóm, - Kết quả nghiên cứu, tìm hiểu mà nhóm đã đạt được: HS báo cáo trung thực kết quả của hoạt động nghiên cứu mà nhóm tìm ra thông qua hoạt động thí nghiệm hay thực hành. - Kết luận khoa học về vấn đề nghiên cứu: HS đưa ra các kết luận khoa học đã được thống nhất trong nhóm dựa trên các kết quả nghiên cứu. - Thuận lợi, khó khăn khi làm việc, cách khắc phục của nhóm nếu có. - Kiến nghị liên quan đến vấn đề cần tìm hiểu nếu có. Tiến trình tìm tòi nghiên cứu khoa học trong phương pháp “Bàn tay nặn bột” là một vấn đề cốt lõi, quan trọng. Tiến trình tìm tòi nghiên cứu của HS không phải là một đường thẳng đơn giản mà là một quá trình phức tạp. HS tiếp cận vấn đề đặt ra qua tình huống (câu hỏi lớn của bài học); nêu các giả thuyết, các nhận định ban đầu của mình, đề xuất và tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu; đối chiếu các nhận định (giả thuyết đặt ra ban đầu); đối chiếu cách làm thí nghiệm và kết quả với các nhóm khác; nếu không phù hợp HS phải quay lại điểm xuất phát, tiến hành lại các thí nghiệm như đề xuất của các nhóm khác để kiểm chứng; rút ra kết luận và giải thích cho vấn đề đặt ra ban đầu. Trong quá trình này, HS luôn luôn phải động não, trao đổi với các HS khác trong nhóm, trong lớp, hoạt động tích cực để tìm ra kiến thức. 2.5.2. So sánh kết quả thu nhận được và đối chiếu với kiến thức khoa học Sau khi khi thực hiện thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được giải quyết, các giả thuyết được kiểm chứng, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học. GV khắc sâu kiến thức cho HS bằng cách cho HS nhìn lại, đối chiếu lại các ý kiến ban đầu (bước 2). Như vậy từ những quan niệm ban đầu sai lệch, sau quá trình thực nghiệm tìm tòi- nghiên cứu, chính HS tự phát hiện ra mình sai hay đúng mà không phải do GV nhận xét một cách áp đặt. Chính HS tự phát hiện những sai lệch trong nhận thức và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động. Những thay đổi này sẽ giúp HS ghi nhớ một cách lâu hơn, khắc sâu kiến thức. Sử dụng bảng tương tác hỗ trợ việc đánh giá kết quả học tập của HS, so sánh, tổng kết, kết luận kiến thức sẽ đem đến cho HS những kiến thức hết sức sinh động, trực quan, dễ hiểu, nhớ lâu, tạo ấn tượng mạnh, làm cho HS hào hứng hơn khi tham gia học tập, ... GV có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để HS ghi vào vở coi như là kiến thức của bài học. Trước khi kết luận chung, GV nên yêu cầu một vài ý kiến của HS cho kết luận sau khi thực nghiệm. IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN Những biện pháp mà chúng tôi áp dụng trong thời gian qua đã phát huy tác dụng thông qua việc ngày càng có nhiều tiết học, nhiều hoạt động vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Trong mỗi giờ học vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”, bảng tương tác, các em HS đều tỏ ra rất hứng thú tìm tòi, khám phá, chủ động và tích cực tham gia các hoạt động học tập. Chỉ qua thời gian ngắn thực hiện, nhiều kĩ năng của HS tiến bộ rất rõ rệt: tinh tế trong quan sát, thuyết phục trong trình bày, chuẩn xác trong thực hành thí 9 để giúp HS nắm bắt kiến thức để tìm tòi khám phá, phát huy tính tích cực của mình. Thời gian qua, Trường Tiểu học Lê Đức Thọ đã đẩy mạnh việc triển khai, mở rộng vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” và sử dụng hiệu quả bảng tương tác trong giảng dạy bộ môn Khoa học lớp 4, 5. Trong thời gian tới, đội ngũ GV sẽ tiếp tục tham gia các lớp tập huấn về phương pháp “Bàn tay nặn bột” để nâng cao nhận thức, bồi dưỡng kĩ năng, phương pháp. Thường xuyên trao đổi với các đồng nghiệp nhằm rút kinh nghiệm, điều chỉnh việc dạy và học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột” cho tốt hơn. Tự thiết kế sáng tạo phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong những modul kiến thức khác với sách giáo khoa và thực hiện trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Mỗi GV không ngừng phấn đấu, nâng cao năng lực chuyên môn, nắm vững phương pháp “Bàn tay nặn bột” và các phương pháp dạy học tích cực khác; tích cực xây dựng các tài liệu chuyên môn phục vụ dạy học, nắm chắc các điều kiện của trường như cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị dạy học, tài liệu tham khảo./. 11
File đính kèm:
- chuyen_de_khai_thac_5_buoc_day_cua_phuong_phap_ban_tay_nan_b.doc