Thao giảng- Chuyên đề - Thay đổi ngữ liệu nội dung bài học

docx 10 Trang tieuhoc 80
Bạn đang xem tài liệu "Thao giảng- Chuyên đề - Thay đổi ngữ liệu nội dung bài học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thao giảng- Chuyên đề - Thay đổi ngữ liệu nội dung bài học

Thao giảng- Chuyên đề - Thay đổi ngữ liệu nội dung bài học
 THAO GIẢNG – CHUYÊN ĐỀ
 THAY ĐỔI NGỮ LIỆU NỘI DUNG BÀI HỌC 
 Ngữ liệu - bao gồm ngữ liệu văn học và ngữ liệu từ ngữ, là một bộ phận 
quan trọng hàng đầu, không thể thiếu được khi soạn sách giáo khoa ngữ văn các 
cấp học nói chung và sách tiếng Việt tiểu học nói riêng. Trong đó, ngữ liệu từ ngữ 
tiếng Việt bao gồm từ tiếng Việt và những đơn vị từ vựng tiếng Việt khác có tư 
cách tương đương với từ như cụm từ tự do, thành ngữ, tục ngữ... Ngữ liệu được 
đưa vào sách giáo khoa tiểu học để cung cấp cho học sinh kiến thức, trang bị kỹ 
năng sử dụng ngôn ngữ, đồng thời bồi dưỡng cho các em thái độ, tình yêu đối với 
tiếng mẹ đẻ.
 Trong những năm gần đây, vấn đề dạy học trong nhà trường phổ thông đã có 
sự chuyển biến mạnh mẽ, từ hướng dạy học nội dung sang dạy học phát triển năng 
lực. Sự chuyển biến này trước hết thể hiện ở yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học 
và kiểm tra đánh giá, kể cả đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, nhất là các 
kì kiểm tra quan trọng (cuối kì, cuối năm).
 Với các thầy cô giáo dạy học Tiếng Việt - Ngữ văn, bên cạnh việc phải thay 
đổi phương pháp dạy học, còn cần biết cách hướng dẫn học sinh rèn luyện nhằm 
phát triển năng lực đọc, viết, nói và nghe. Với học sinh, bên cạnh việc học tập theo 
hướng dẫn của thầy cô giáo, các em còn phải rèn luyện thông qua hệ thống bài tập 
để nắm chắc nội dung đã học. Người giáo viên song song với việc giảng dạy cần rà 
soát ngữ liệu trong sách giáo khoa để điều chỉnh, thay mới những ngữ liệu không 
phù hợp, lựa chọn ngữ liệu thay thế phù hợp với nội dung các chủ điểm, phù hợp 
với đối tượng học sinh, phù hợp với thực tế địa phương và có tính cập nhật nhằm 
phát triển năng lực phẩm chất học sinh. “Thay đổi ngữ liệu phù hợp” là phương 
tiện và công cụ rèn luyện tạo sự hấp dẫn và hiệu quả trong việc học Tiếng Việt, 
mang lại cho các em học sinh niềm vui và sự hữu ích trong học môn Tiếng Việt.
 Chính vì vậy, chúng tôi luôn chú ý “Thay đổi ngữ liệu trong dạy học 
 Tiếng Việt nhằm phát triển năng lực phẩm chất học sinh lớp 3”. có nhận xét phù hợp hay là chưa xác định rõ cách ghi mức độ đạt được về kiến 
thức của học sinh. 
 BÀI HỌC KINH NGHIỆM
 1. Việc thay đổi ngữ liệu nội dung bài học và cách kiểm tra đánh giá theo 
hướng phát triển năng lực Tiếng Việt cho học sinh đồng thời cũng đặt ra yêu cầu, 
nhiệm vụ cao hơn đối với mỗi giáo viên là phải tâm huyết với nghề, đầu tư soạn 
thiết kế bài dạy, xây dựng hệ thống câu hỏi phát hiện, gợi mở, tổng hợp, nâng cao, 
tổ chức những hoạt động dạy học và giáo dục phù hợp để hình thành năng lực 
phẩm chất theo mục tiêu đề ra, theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục.
 2. Giáo viên phải nắm chắc yêu cầu kỹ năng về sự hình thành và phát triển 
phẩm chất, năng lực của học sinh tiểu học ở từng độ tuổi. Từ đó, đưa ra được nhận 
định đúng hoặc lời khuyên phù hợp cho học sinh trong giờ dạy.
 3. Tổ chức cho học sinh học nhóm, các em sẽ được giao tiếp, tự học, tự trao 
đổi tích cực, mạnh dạn trước tập thể, rèn thói quen biết nói rõ ràng, mạch lạc, lôi 
cuốn mọi người nghe và chú ý đến điều mình đang nói. Học sinh phát huy tính tích 
cực, chủ động, sáng tạo trong giờ học. Các em mạnh dạn hơn trong giao tiếp, ứng 
xử nhanh nhẹn. Vì vậy, giáo viên nên tạo điều kiện cho học sinh được tương tác 
với nhau trong quá trình học tập bằng cách tích cực tổ chức hoạt động theo nhóm.
 4. Khi tổ chức các hoạt động giáo dục giáo viên cần chú ý rèn học sinh các 
nền nếp như: sắp xếp sách vở đồ dùng, cách ăn mặc, quan tâm và tạo cơ hội cho 
học sinh được trình bày ý kiến. 
 5. Trong SGK, ngữ liệu được đưa vào giúp HS nắm kỹ nội dung bài học để 
đạt mục tiêu giáo dục. Tuy nhiên, nhiều khi có một số ngữ liệu chưa phù hợp với 
thời điểm HS tiếp cận, với lứa tuổi và với đặc trưng của tiếng Việt Vì vậy khi 
đưa vào bài dạy, giáo viên nên chọn ngữ liệu có tính phổ biến cao, phù hợp nhận 
thức. Đối với ngữ liệu là trích đoạn văn học thì phải cân nhắc khi lựa chọn. Bởi 
nhà văn có quyền sáng tạo, có cách dùng ngôn ngữ riêng chứ không tuân thủ theo 
nguyên tắc ngữ pháp. Như vậy để HS không có sự nhầm lần, hiểu lầm, hiểu sai thì 
mọi ngữ liệu cần có dẫn giải cụ thể trích ở đâu, của ai
 6. Một trong những việc làm tạo nên môi trường học tập thân thiện là giáo 
viên luôn sử dụng những lời nhận xét đánh giá mang tính động viên, khuyến khích 
giúp học sinh biết chủ động, tự giác, say mê, phát huy tính tích cực và tinh thần tự 
học để các em học sinh ham học tập, thích tìm hiểu, khám phá tùy theo khả năng 
hiểu biết của bản thân mình, thích nghi được với thực tiễn cuộc sống. 
 KẾT LUẬN
 “Thay đổi ngữ liệu phù hợp” là phương tiện và công cụ rèn luyện tạo sự 
hấp dẫn và hiệu quả trong việc học Tiếng Việt, mang lại cho các em học sinh niềm - Dạy học tiếp nhận ngôn bản (nghe, đọc hiểu)
 - Dạy học tạo lập ngôn bản (nói,viết, trình bày)
 a) Trong dạy học các tri thức tiếng Việt, chúng ta đang quá tập trung vào 
nhận biết, phân tích, phân loại các đơn vị ngôn ngữ mà ít chú ý đến việc sử dụng 
chúng.
 GV chúng ta thường chỉ quan tâm, băn khoăn thắc mắc một tổ hợp ngôn ngữ 
nào đó là một từ hay hai từ, chúng là từ đơn, từ ghép hay là từ láy, chúng thuộc 
biện pháp so sánh hay không phải là so sánh, chúng là danh từ, động từ hay tính từ, 
một tổ hợp nào đó thuộc kiểu câu Ai là gì? Ai làm gì? hay kiểu câu Ai thế nào?, 
chúng là câu đơn hay là câu ghép mà không quan tâm chúng được dùng để làm 
gì, dùng như thế nào trong hoạt động nói năng, lúc nào, hoàn cảnh nào thì nên chọn 
chúng.
Để phát triển năng lực dùng từ cho học sinh, giáo viên cần chỉ dẫn được cho các 
em trong tình huống nào thì chọn từ đơn hay từ ghép, từ láy, dùng từ theo nghĩa 
gốc hay nghĩa chuyển, dùng một từ hay một ngữ, chỉ dẫn bộ phận nào cách đặt câu 
bộ phận nào nên đặt trước hay đặt sau...Có như vậy, khi dạy viết văn miêu tả mới 
chuyển được những cách dùng từ, đặt câu của học sinh như "Buổi sáng thuyền đi 
làm" thành “Buổi sáng thuyền căng buồm ra khơi” “Mỗi khi đi qua đây, ai cũng hít 
lấy hít để mùi thơm” thành “Ai cũng muốn đến đây để thưởng thức hương thơm” 
hay “ Vừa tới nơi, hương thơm đã dạt dào bay vào cánh mũi”, chuyển từ “Có nhiều 
con chim đang bay” thành “Những cánh chim chấp chới (dập dờn)”,chuyển từ 
“Vừa liếm vào múi sầu riêng, ta đã thấy nó ngọt” thành "Khi đầu lưỡi ta vừa chạm 
vào múi sầu riêng,vị ngọt của nó dường như đã lan tỏa” ...
 b) Trong dạy học tập đọc, chúng ta đang quá tập trung vào nhận biết, tái 
hiện các tình tiết của văn bản (đọc nhớ) mà ít giải thích và đặc biệt ít dạy học sinh 
hồi đáp (đánh giá, liên hệ) nên chưa dạy học sinh đọc vận dụng, sáng tạo. - Qua bài văn, em nghĩ mình cần làm gì để bảo vệ “lá phổi xanh” của trái đ
ất?
 - Nếu em là vị thẩm phán, em có phạt bà cụ không ? Vì sao?(Một phiên tòa)
 - Em ghi tóm tắt những cảm nghĩ của mình sau khi đọc bài “ Hội mùa 
xuân”. Vì sao em có những cảm nghĩ đó?
 - Em yêu thích công việc gì? Để thành công với công việc mình yêu thích, 
em nghĩ mình cần có những phẩm chất gì? (Bàn tay người nghệ sĩ)
 - Em đã từng gặp khó khăn gì? Em đã làm gì để vượt qua khó khăn đó? (Câu 
chuyện về những hạt muối)
 - Em đã làm những việc gì để thể hiện là một học sinh có trách nhiệm trong 
học tập?
 - Em đã làm được những việc gì giống như những “điều tốt đẹp” mà nàng 
tiên mùa Xuân đã nhắc đến trong câu chuyện? (Sứ giả mùa Xuân)
 3. Ra đề và đánh giá Tập làm văn theo hướng phát triển năng lực
 3. 1. Ra đề “mở”
 - Đề miêu tả càng ra khái quát về đối tượng thì từng học sinh sẽ có quyền tự 
do rộng rãi để lựa chọn đối tượng cụ thể trong nhóm đối tượng do đề bài quy định 
để làm bài.
 - Đề bài càng ra cụ thể, chi tiết thì càng tạo nên nhiều hạn định bó buộc học 
sinh khi làm bài nếu các em muốn làm đúng yêu cầu của đề bài. 
 - Có thể nói đề bài mang tính khái quát cao có độ mở lớn hơn, rộng hơn đề 
bài đưa ra các hạn định về đối tượng.
 * Từ đề mở chung của cả lớp đến đề bài riêng của từng học sinh
 Từ một đề bài chung giáo viên ra cho cả lớp, ở các đề mở mỗi em lại có thể 
làm bài theo ý muốn của mình, do mình lựa chọn và quyết định. 
 - Làm thế nào để mỗi học sinh lại có một bài tả hay kể khác nhau dựa trên 
một đề bài cô giáo hay thầy giáo ra chung cho cả lớp? 
 Câu trả lời là: Mỗi học sinh cần thực hiện quá trình cá thể hóa đề bài chung 
của lớp thành đề bài của riêng mình. Khâu cá thể hóa đề bài này hiện nay nhà 
trường chưa đề cập đến tức chưa dạy cho học sinh. 
 Cá thể hóa đề bài tập làm văn là quá trình mỗi em học sinh, từ đề bài chung 
của cả lớp tự đặt ra các hạn định cho đối tượng miêu tả hay cho cốt truyện các em 
định kể dựa trên sự trải nghiệm bản thân, vốn hiểu biết cuộc sống của bản thân và 
phù hợp với yêu cầu của đề bài. chuyện. Để nếp nghĩ, cách làm nêu trên trở thành phổ biên, trở thành nếp nghĩ, 
cách làm thường trực của mỗi giáo viên chắc chắn chúng ta phải kiên trì vận động, 
cổ vũ trong thời gian dài.
 2. Học tập cách xây dựng hướng dẫn chấm bài, cách chấm bài thực sự tôn 
trọng cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách tả, cách kể của từng cá nhân học sinh.
 Nếu đề bài có loại đề bài mở, có loại đề bài hạn định thì việc xây dựng 
hướng dẫn chấm bài văn cũng vậy. Có hướng dẫn mở và hướng dẫn theo một 
hướng. Hai loại hướng dẫn chấm bài sẽ hướng tới hai cách chấm bài khác nhau, 
định ra hai cách học và làm bài khác nhau.
 Hướng dẫn chấm bài là văn bản quy định cách chấm từng phần của bài văn. 
Ở mỗi phần của bài văn, hướng dẫn chấm ghi rõ cách chấm về nội dung và về cách 
hành văn cũng như cách sắp xếp ý. 
 Sự khác nhau giữa hướng dẫn chấm mở và hướng dẫn chấm một hướng là 
các hướng dẫn chấm mở thường nêu ra nhiều hướng triển khai nội dung của từng 
phần, yêu cầu người chấm chấp nhận nhiều cách cảm, cách nghĩ, cách tả, cách kể 
khác nhau miễn là các cách đó được trình bày một cách logic, hướng tới một chủ 
đích phù hợp với đề bài đã được học sinh cá thể hóa. 
 Trong khi đó hướng dẫn chấm theo một hướng thường nêu ra các yêu cầu 
cảm, nghĩ, kể, tả theo định kiến của người ra đề, người soạn hướng dẫn chấm. 
 Hướng dẫn chấm theo một hướng có hình thức một dàn bài duy nhất cho đề 
bài tập làm văn kèm theo mức điểm từng phần. Vì thế nó rất cứng nhắc. 
 Tất cả bài văn của học sinh có nội dung khác với cách cảm, nghĩ, kể, tả đã 
ghi trong hướng dẫn chấm đều bị trừ điểm thậm chí không được chấm điểm kèm 
theo những nhận xét hết sức nghiêm khắc như lạc đề, xa đề, hay sai
 Để có kĩ năng ra đề mở, nhất là kĩ năng viết hướng dẫn và chấm bài theo 
hướng mở cần có sự luyện tập, rèn luyện của giáo viên.
 Có rất nhiều vấn đề đặt ra khi viết hướng dẫn và chấm bài theo hướng 
mở. 
 Có vấn đề ở mức tổng quát đối với một bài làm văn nhằm giải đáp câu hỏi tả 
cái gì? Kể theo cốt truyện nào? 
 Ở các cấp độ thấp hơn, ở cấp độ đoạn (đoạn mở bài, đoạn kết bài, các đoạn ý 
trong thân bài); cấp độ chi tiết miêu tả (chi tiết tả ngoại hình, chi tiết tả tính tình 
hay hoạt động ) của người bạn thân cũng có thể có những cách tả, cách kể, cách 
cảm, cách nghĩ khác với quan niệm của cô giáo thì sao?

File đính kèm:

  • docxthao_giang_chuyen_de_thay_doi_ngu_lieu_noi_dung_bai_hoc.docx